Tổng quan về 2C-B (Phần 1)

4-Bromo-2,5-dimethoxyphenethylamine (còn được biết tới với những tên gọi khác như Nexus, Bromo Mescaline, BDMPEA, Venus, và 2C-B) là một chất thức thần mới thuộc nhóm phenethylamine. Có lẽ đây là chất phổ biến nhất thuộc họ 2C-x, nó có cấu trúc tương đồng với chất thức thần kinh điển mescaline. Cơ chế hoạt động chưa được hiểu rõ hoàn toàn, dù vậy sự liên hệ với các hoạt động thụ cảm serotonin được cho là yếu tố chính có liên quan. 

2C-B được phát hiện vào năm 1974 bởi nhà hoá học người Mỹ Alexander Shulgin, ông đã có những nghiên cứu về chất thức thần phenethylamine có nguồn gốc từ mescaline. Vào những năm 1970, lần đầu tiên nó được sử dụng  bởi một nhóm nhỏ các nhà trị liệu tâm lý người Mỹ với vai trò hỗ trợ điều trị và được cân nhắc là một trong những chất tốt nhất có thể đáp ứng yêu cầu do những đặc tính của nó là tác dụng trong khoảng thời gian ngắn, không có nhiều tác dụng phụ, và bản chất tương đối nhẹ.

Không lâu sau đó, nó được sử dụng trong mục đích giải trí và nhanh chóng được sản xuất cũng như thương mại hoá dưới những tên gọi như “Erox” và “Nexus” trước khi bị cho vào danh sách cấm của liên bang vào năm 1995.

Tác động chủ quan bao gồm hiệu ứng thị giác khi nhắm và mở mắt, bóp méo thời gian, hưng phấn, và cảm nhận mất cái tôi. Các phản hồi từ người sử dụng đã miêu tả hiệu ứng của 2C-B là ôn hoà, ấm áp, sắc màu, và cực kỳ nhạy cảm. Tương đồng với mescaline, nó được diễn tả là ít ảnh hưởng đến tâm lý hơn là các chất tryptamines như LSD hay nấm psilocybin, gia tăng nhiều hơn tới cảm nhận thị giác và xúc giác.

Liều lượng nhỏ (dưới 15mg) được báo cáo mang lại lợi ích trong việc nâng cao hiệu ứng giác quan và thẩm mỹ (trong phạm vi tương đồng với MDMA) trong khi liều cao hơn được báo cáo là tạo ra một hiệu ứng ảo giác khác biệt.

Cần thêm nhiều nghiên cứu để khẳng định, nhưng nhìn chung về mặt sinh lý học, nó được cho là một chất có khả năng dung nạp tốt. Nó có vẻ tương đồng về sự an toàn với các chất thức thần cổ điển, được biết tới là sở hữu ít khả năng gây lạm dụng hay có độc tính. Tuy nhiên, những phản ứng tâm lý như lo âu, hoảng loạn, hoang tưởng, rối loạn tâm lý là hoàn toàn có thể xảy ra, đặc biệt đối với những nhóm người có tiền sử rối loạn tâm thần.

Việc sử dụng các biện pháp giảm thiểu tác hại là khuyến cáo hàng đầu khi sử dụng chất này.

Lịch sử và văn hoá

2C-B lần đầu được tổng hợp và nghiên cứu dành cho các chất thay đổi nhận thức vào năm 1974 bởi dược sĩ và nhà nghiên cứu thức thần người Mỹ Alexander Shulgin, người đã có những nghiên cứu mới lạ về các hợp chất thức thần dựa trên cấu trúc hoá học của mescaline.

Những kết luận của Shulgin được tìm thấy trong cuốn sách PiHKAL: A chelmical Love story xuất bản năm 1991, trong đó ông đưa 2C-B vào danh sách “12 hợp chất ma thuật” (Shulgin cho là những hợp chất quan trọng nhất) của các chất hướng thần gốc phenethylamine. Danh sách bao gồm mescaline, DOM, 2C-B, 2C-E, 2C-T-2, và 2C-T-7. Trong các cuộc phỏng vấn, Shulgin liên tục công nhận nó là chất thức thần mà ông ưa thích nhất.

Vào những năm 1970, nó được sử dụng trong nhóm nhỏ các bệnh nhân trị liệu tâm lý tại Hoa Kỳ. Báo cáo của các nhà trị liệu mô tả rằng nó tạo ra một sự kết giao đồng cảm, ấm áp giữa họ và bệnh nhân, giúp họ cởi bỏ sự phòng thủ về cái tôi và kháng cự bên trong, cho phép bệnh nhân liên hệ với những cảm xúc và ký ức bị đè nén. Bản chất êm ái của 2C-B, cùng việc có ít tác dụng phụ và tồn tại trong khoảng thời gian ngắn, được cho là những đặc điểm phù hợp với môi trường trị liệu.

Không lâu sau khi thu hút sự chú ý từ cộng đồng trị liệu underground, 2C-B trở nên phổ biến trong các loại thuốc dùng để giải trí. Nó được tiếp nhận rộng rãi như một sự thay thế cho MDMA ở các bữa tiệc giải trí và Club nhờ việc sở hữu ít triệu chứng âm đồ và tác dụng tâm lý tinh khiết, khoan khoái.

Từ những năm 1980 đến đầu 1990, một số công ty dược nội địa đã sản xuất hợp pháp chất này dưới nhãn hiệu “Nexus”, “Erox”, và “Performax” với quảng cáo rằng hợp chất giúp làm giảm triệu chứng liệt dương, lãnh cảm và suy giảm ham muốn tình dục. Nó được bày bán tại các cửa hàng kinh doanh sách truyện và phim ảnh người lớn, “head” shop, và các hộp đêm. Báo cáo của DEA tìm thấy sự xuất hiện của nó tại Miami, Florida dưới dạng các viên nén màu vàng được bày bán dưới dạng thuốc kích dục.

Tại Hoa Kỳ, nó tạo được tiếng vang như là một sự lựa chọn thay thế cho MDMA sau khi chất này bị liệt vào danh sách chất cấm vào năm 1985. Do sự phổ biến ngày càng rộng rãi của 2C-B nên nó cũng có tên danh sách này vào năm 1885. Trong những năm 2000, chúng ta lại được chứng kiến sự quan tâm về hợp chất này hồi sinh, dưới dạng “chế dược dùng cho nghiên cứu” và ở chợ đen.

2C-B được bày bán hợp pháp tại Nam Phi trong khoảng từ 1993 tới đầu 1996. Nó được tiếp thị như một loại thuốc dành cho Sangomas (các thầy thuốc truyền thống) dưới tên gọi “Ubulawu Nomathotholo”, tạm dịch là “Bài thuốc của tổ tiên hoà ca”.

Hoá học

2C-B, hay còn gọi là 2,5-dimethoxy-4-bromophenethylamine, là hợp chất phenethylamine thay thế. Hợp chất phenethylamine thay thế là một hợp chất hữu cơ dựa trên cấu tạo của phenethylamine, vòng phenyl liên kết với một nhóm amino (NH2) thông qua một liên kết ethyl. 2C-B sở hữu các nhóm chức methoxy CH3O- gắn với R2 và R5 cũng như một nguyên tử Brom gắn với các bon R4 của vòng phenyl.

2C-B thuộc nhóm họ 2C của phenethylamines, tất cả cùng sở hữu nhóm methoxy trên vị trí số 2 và 5 của vòng benzene. 

Cách sử dụng 2C-B

2C-B có dạng bột hoặc được đóng sẵn dạng viên nén/ viên nang.

Luôn kiểm tra kĩ thông tin liều lượng khi bạn dùng viên đóng sẵn. Bột 2C-B hay được dùng bằng cách gói vào giấy cuốn thành những “quả bom” nhỏ và sau đó được dùng để uống cả vỏ như dạng viên.

Bột 2C-B được gói vào giấy thành những “quả bom” dùng để uống cả vỏ như dạng viên.

Một số người thích dùng bằng cách hít (snort). Hãy cẩn thận khi bạn dùng cách này bởi dễ nạp quá nhiều. Nói chung điều này là không nên bởi nó làm tổn thương niêm mạc mũi. 

Với liều lượng rất nhỏ của 2C-B bạn hãy luôn chuẩn bị một chiếc cân tiểu ly và tuyệt đối không dùng mắt ước lượng 2C-B hay bất kì thuốc dạng bột nào. Điều này có thể quyết định bạn có trải nghiệm tích cực hay tỉnh dậy trong bệnh viện.

2C-B cũng có thể được hoá hơi, tuy nhiên không có thông tin về việc liệu hợp chất này sẽ thay đổi và có tác dụng ra sao dưới tác dụng của nhiệt độ hoá hơi.

Dược học

Không giống như hầu hết các chất thức thần, 2C-B được chứng minh là một chất bán chủ vận yếu ở thụ thể serotonin 5-HT2A, thậm chí có thể là chất đối kháng. Điều này gợi ra rằng thụ cảm 5-HT2C đóng vai trò chính chịu trách nghiệm gián tiếp tới việc trải nghiệm hiệu ứng của người sử dụng 2C-B. Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng 2C-B tăng cường nồng độ dopamine trong não chuột, có thể góp vai trò thay đổi nhận thức.

Tuy nhiên, vai trò của các tương tác này và cách chúng tạo ra trải nghiệm thức thần vẫn còn là bí ẩn.

2C-B Có an toàn?

Không hề có báo cáo về tử vong do quá liều 2C-B nào. Các kiểm nghiệm lâm sàng cho thấy chất này có ít tác dụng phụ và có độ an toàn cao. Các báo cáo trên reddit cũng như qua khảo sát cho thấy một số nhỏ thích dùng liều cao tới hơn 50mg mà không có tác dụng không mong muốn nào.

Trong phần 2 chúng ta sẽ cùng so sánh 2C-B với các chất thức thần khác, hiệu ứng cũng như các combo kết hợp 2C-B.

Nguồn: PsychonautWiki

Dịch: Jesse